Địa chỉ: 93 Cao Hồng Lãnh - Quận Ngũ Hành Sơn - Thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: (0236) 3861555 - (0236) 3861777
Tên thật là Võ Toàn, sinh năm 1913, quê xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ, nay là huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Sớm giác ngộ chính trị, ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1933. Bí thư chi bộ năm 1936, Bí thư Huyện ủy năm 1939, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam năm 1940; phụ trách xây dựng cơ sở cách mạng ở các tỉnh Nam Trung Bộ (1940 - 1942). Năm 1942, bị thực dân Pháp bắt, kết án 25 năm tù, đày đi Buôn Mê Thuột. Sau cuộc Nhật đảo chính Pháp (09 - 3 -1945), ông thoát ngục trở về Quảng Nam, phụ trách Trưởng ban khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Năm 1946, làm Chính trị viên trung đoàn 93, Phó ban tổ chức cán bộ Quân khu V.
Trong Đại hội Đảng bộ Liên khu V (1950), Ông được bầu vào Liên khu ủy. Năm 1952, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. Năm 1954, ra Bắc tham gia cải cách ruộng đất ở Việt Bắc.
Thời chống kỳ Mỹ, trở về hoạt động bí mật ở khu V, làm Phó bí thư Khu ủy (1955 - 1960); Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung Ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Năm 1960 - 1975, Bí thư kiêm Chính ủy Quân khu V.
Võ Chí Công là một trong những nhà lãnh đạo thực tiễn xuất sắc trong cuộc trường chinh giải phóng dân tộc; Bản lĩnh của người lãnh đạo cao cấp thể hiện nổi bật ở sự quyết đoán, năng động và dám chịu trách nhiệm trong những thời khắc có tính chuyển biến quyết định của cách mạng và chiến tranh. Như quyết định của ông về chủ trương ủng hộ mạnh mẽ cuộc khởi nghĩa Trà Bồng (miền tây Quảng Ngãi) năm 1959, ông sáng suốt chuyển cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền núi thành chiến tranh du kích, lập làng chiến đấu, phát triển căn cứ địa cách mạng. Đặc biệt quyết định táo bạo và sáng suốt của ông kịp thời đề nghị với Bộ Chính trị cho đánh ngay Đà Nẵng sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, khi thấy địch có dấu hiệu bỏ Tây Nguyên, và ráo riết chỉ đạo tập trung lực lượng tấn công Đà Nẵng với một quyết tâm và khí thế khẩn cấp, góp phần to lớn vào thắng lợi của dân tộc mùa xuân 1975.
Sau ngày đất nước thống nhất, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy sản (1976 - 1977); Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp (1977 -1979), Trưởng ban Cải tạo nông nghiệp miền Nam; Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1976 - 1986); Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1987 - 1992).
Ông được bầu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa III, IV, V, VI, Ủy viên Bộ Chính trị các khóa IV, V, VI. Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (6/1991 - 12/1997); Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VII, VIII.
Với những công lao to lớn Ông đã đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng.